- Tham gia
- 26/3/21
- Bài viết
- 4,370
- Thích
- 2,025
Cho phép áp dụng hồi tố quy định về tỷ lệ tạm nộp 04 quý không thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm từ kỳ tính thuế năm 2021:
Nghị định số 91/2022/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 30/10/2022, ngoài những nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP, quy định tại Nghị định số 91/2022/NĐ-CP cũng cho phép hồi tố đối với số thuế TNDN và lợi nhuận còn lại sau thuế đã tạm nộp của kỳ tính thuế năm 2021, cụ thể:
Nếu tính đến ngày 30/10/2022, người nộp thuế có số thuế tạm nộp 03 quý đầu kỳ tính thuế năm 2021 không thấp hơn 75% số phải nộp theo quyết toán năm, thì không áp dụng quy định tỷ lệ tạm nộp 04 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP.
Nếu tính đến ngày 30/10/2022, người nộp thuế có số thuế tạm nộp 03 quý đầu kỳ tính thuế năm 2021 thấp hơn 75% số phải nộp theo quyết toán năm, thì được áp dụng tỷ lệ tạm nộp 04 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP nếu không tăng thêm số tiền chậm nộp.
Bên cạnh đó, quy định tại Nghị định 91/2022/NĐ-CP cũng hướng dẫn rõ về việc xử lý tiền chậm nộp phát sinh theo quy định cũ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế khi áp dụng quy định hồi tố nêu trên, cụ thể:
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền thực hiện thanh tra, kiểm tra đã tính tiền chậm nộp đối với số thuế nộp thiếu so với tỷ lệ tạm nộp 75% theo quy định tại điểm b, điểm c, điểm g khoản 6 Điều 8 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP và khi áp dụng quy định tỷ lệ tạm nộp 04 quý tại khoản 3, 4, 5 Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP được giảm số tiền chậm nộp thì người nộp thuế có văn bản đề nghị điều chỉnh giảm tiền chậm nộp theo Mẫu số 01/GTCN tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 91/2022/NĐ-CP gửi cơ quan thuế nơi phát sinh tiền chậm nộp (là cơ quan thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan thuế có hoạt động được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp). Sau khi điều chỉnh giảm mà có số tiền chậm nộp nộp thừa thì thực hiện theo quy định tại Điều 60 và Chương VIII Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nghị định số 91/2022/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 30/10/2022, ngoài những nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP, quy định tại Nghị định số 91/2022/NĐ-CP cũng cho phép hồi tố đối với số thuế TNDN và lợi nhuận còn lại sau thuế đã tạm nộp của kỳ tính thuế năm 2021, cụ thể:
Nếu tính đến ngày 30/10/2022, người nộp thuế có số thuế tạm nộp 03 quý đầu kỳ tính thuế năm 2021 không thấp hơn 75% số phải nộp theo quyết toán năm, thì không áp dụng quy định tỷ lệ tạm nộp 04 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP.
Nếu tính đến ngày 30/10/2022, người nộp thuế có số thuế tạm nộp 03 quý đầu kỳ tính thuế năm 2021 thấp hơn 75% số phải nộp theo quyết toán năm, thì được áp dụng tỷ lệ tạm nộp 04 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP nếu không tăng thêm số tiền chậm nộp.
Bên cạnh đó, quy định tại Nghị định 91/2022/NĐ-CP cũng hướng dẫn rõ về việc xử lý tiền chậm nộp phát sinh theo quy định cũ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế khi áp dụng quy định hồi tố nêu trên, cụ thể:
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền thực hiện thanh tra, kiểm tra đã tính tiền chậm nộp đối với số thuế nộp thiếu so với tỷ lệ tạm nộp 75% theo quy định tại điểm b, điểm c, điểm g khoản 6 Điều 8 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP và khi áp dụng quy định tỷ lệ tạm nộp 04 quý tại khoản 3, 4, 5 Điều 1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP được giảm số tiền chậm nộp thì người nộp thuế có văn bản đề nghị điều chỉnh giảm tiền chậm nộp theo Mẫu số 01/GTCN tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 91/2022/NĐ-CP gửi cơ quan thuế nơi phát sinh tiền chậm nộp (là cơ quan thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan thuế có hoạt động được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp). Sau khi điều chỉnh giảm mà có số tiền chậm nộp nộp thừa thì thực hiện theo quy định tại Điều 60 và Chương VIII Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và các văn bản hướng dẫn thi hành.